Sụp Đổ - Jared Diamond

Sụp Đổ – Các Xã Hội Đã Thất Bại Hay Thành Công Như Thế Nào?

Cuối năm 2004, Jared Diamond xuất bản cuốn “Sụp đổ: Cách Xã hội Chọn Thất bại Hoặc Thành công” (“Collapse: How Societies Choose to Fail or Succeed”,
New York: Viking). Quyển này tiếp tục tiếp cận của quyển trước, tức là dựa vào những yếu tố môi trường và cơ cấu xã hội để giải thích lịch sử của xã hội ấy. Tuy nhiên, trong khi cuốn trước tìm cách lí giải sự thống trị của văn minh tây phương trên phần lớn thế giới, thì bây giờ Diamond nghiền ngẫm nguyên nhân đưa đến sự sụp đổ của một số nền văn minh.

Trong cuốn Sụp đổ, Jared Diamond trình bày khá chi tiết lịch sử của một số xã hội đã thất bại: Ba đảo ở các vùng bể khá ấm áp (đảo Phục Sinh, đảo Pitcairn, và Haiti), một đảo ở vùng khá lạnh (Grin-len), một vùng bán sa mạc ở lục địa (dân Anasazi miền Tây Nam Hoa Kỳ), một vùng rừng nhiệt đới ở lục địa (dân Maya ở Mê-hi-cô), bang Montana của Mỹ, cũng như vài trường hợp khác như cuộc tàn sát gần đây ở Rwanda, hay hiện trạng xã hội và kinh tế suy sụp ở Haiti.

Tải thêm sách: Súng, Vi trùng và Thép

Một lí do khiến nhiều xã hội thất bại, trong lúc nhiều xã hội khác thành công, theo Jared Diamond, là ảnh hưởng môi trường, Ở những nơi khí hậu khắc nghiệt (như quá lạnh, hoặc quá khô) thì một quyết định sai quấy dù nhỏ trong cũng đủ gây diệt vong. Ở những nơi khác, như miền nhiệt đới, hoặc nơi nhiều mưa, nhiều nước ngọt, thì lầm lỗi trong quyết định sẽ không tai hại như thế. Nhìn qua các lí do đưa đến sự diệt vong của những xã hội trong lịch sử, Diamond liệt kê năm yếu tố:

Tổn hại môi trường.
Thay đổi khí hậu, ví dụ như thời tiết lạnh hơn hoặc khô hơn.
Liên hệ giữa xã hội và các lân bang thù địch.
Liên hệ với những láng giềng thân thiện.
Cách đối phó của tập thể về mặt chính trị, kinh tế, xã hội trước những khó khăn xảy ra.
Tầm quan trọng tương đối của năm yếu tố trên tuỳ thuộc vào từng trường hợp. Jared Diamond đưa ra nhiều dẫn chứng. Trường hợp thứ nhất là sự sụp đổ của xã hội Pô-ly-nê-xia trên đảo Phục Sinh (mang tên ấy vì nhà thám hiểm Jacob Roggeveen đã tìm ra đảo này vào ngày lễ Phục Sinh năm 1722) ba thế kỉ trước đây là do yếu tố môi trường. Yếu tố (2)-(4) thì gần như không có vai trò gì trong sự sụp đổ này. Trường hợp thứ hai là sự sụp đổ của bộ lạc Anasazi ở Tây Nam nước Mỹ do ảnh hưởng của tổn hại môi trường và thay đổi thời tiết.

Tải thêm: Thế giới cho đến ngày hôm qua

Sự sụp đổ của văn minh Maya ở bán đảo Yucatan (Trung Mỹ) là do yếu tố (1) và (2), cộng với (5). Trước Columbus, văn minh Maya là văn minh cao nhất ở Tân Thế Giới. Họ có những sáng tạo nổi bật về chữ viết, về thiên văn, về kiến trúc, và nghệ thuật. Phát sinh ngay từ vùng ấy hơn 2500 năm trước tây lịch, các xã hội Maya ngày càng phát triển từ 250 sau tây lịch trở đi, đạt đến tột đỉnh vào khoảng thế kỉ thứ 8. Nhưng đến thế kỉ thứ 10 thì nền văn minh này hoàn toàn sụp đổ: 90% dân số biến mất, những đô thị của họ bị rừng bao phủ. Việc gì đã xảy ra?

Lí do chính là sự huỹ hoại môi trường: cây cối bị đốn, đất bị mòn, và nhiều bất cập về cách quản lí nước. Hậu quả là số lượng lương thực bị giảm đi. Những vấn đề này càng trầm trọng thêm vì hạn hán, mà lí do lại có thể tại con người phá rừng. Thêm nữa, với đất trồng trọt và các tài nguyên khác ngày càng ít đi, giặc giã giành giựt xảy ra liên miên.

Tại sao các nhà vua Maya không thấy những vấn đề này? Chắc chắn là họ thấy rừng ngày càng bị tàn phá, đất đai bị xói mòn? Một phần lí do là vì họ sống xa dân chúng, không thấy những vấn đề ảnh hưởng đến đa số xã hội. Bằng cách bốc lột dân chúng, họ sống phè phỡn trong lúc dân chúng chết đói. Hơn nữa, những vị vua này lại tranh giành quyền lực với nhau, và đua đòi phô trương cuộc sống xa hoa. Sống cách biệt với dân chúng, họ chỉ thành công ở một điều: đó là họ chết đói sau cùng!

Trường hợp thứ ba là sự sụp đổ của xã hội Pô-ly-nê-xia trên các đảo Henderson và Pitcairn ở Thái Bình Dương, phần nhỏ là do những tổn hại môi trường tự họ gây ra, nhưng phần lớn là sự mất ngoại thương vì một đối tác ngoại thương của họ bị sụp đổ. Do đó có thể nói là sự sụp đổ này phần lớn không do lỗi của họ. Về nhiều mặt, hai đảo này là thiên đuờng nhiệt đới, khá phong phú nhiều loại lương thực và tài nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên, họ phải nhâp khẩu từ đảo Mangareva (cách đó hàng trăm hải lí) các thuyền con, hoa mầu, gia cầm, và võ sò để làm khí cụ. Rủi thay, xã hội Mangareva lại sụp đổ vì lí do giống như xã hội Maya (tàn phá rừng, đất mòn, và chiến tranh). Mất những nguồn nhập khẩu, các xã hội Pitcairn và Henderson suy tàn cho đến khi mọi người một là chết, hai là bỏ đi nơi khác.

Trường hợp cuối cùng là sự sụp đổ của dân Norse ở Grin-len (Greenland) vì cả năm yếu tố kể trên. Trước hết, phải nhận rằng tổ chức xã hội của dân Norse định cư ở Grin-len có nhiều lợi thế: những người này đã du nhập các thể chế văn hoá, tôn giáo v.v. khá phát triển từ nguyên quán của họ ở Bắc Âu. Tuy nhiên, lỗi lầm của họ là không thấy cái tương khắc giữa sự tồn tại văn hoá và sự tồn tại sinh học. Nói cách khác, thay vì thích ứng với môi trường Grin-len để sống sót (như láng giềng họ là dân Inuit, tuy không “văn minh” bằng, vẫn tồn tại đến ngày nay), dân Norse khư khư giữ lấy văn hoá (nhất là phong tục ăn thịt, nhất định dù chết cũng không ăn cá!). Họ bị diệt chủng sau hơn bốn thế kỉ là vì thế.

Tất nhiên nhiều xã hội khác cũng đã suy tàn, ngoài những ví dụ đơn cử trên đây, chẳng hạn như văn minh Khờ Me, hay tình trạng Rwanda, thổ dân châu Úc, nước Haiti, v.v…

Một điều khá nổi bật trong lí giải của Diamond là hầu hết các xã hội diệt vong đã gặp vận mạng ấy không phải vì các xã hội ấy bị “giết” bởi một cái gì bên ngoài, nhưng mà do chính họ “tự tử”. Nhận xét này đặt cho Diamond một câu hỏi: tại sao quyết định tập thể lại thất bại? Tất nhiên, cá nhân ai cũng có những quyết định sai lầm: trong hôn nhân, trong chọn lựa nghề nghiệp, trong kinh doanh, v.v. Nhưng có nhiều yếu tố khác khiến tập thể có quyết định sai lầm, chẳng hạn như những xung khắc trong quyền lợi của thành viên, và những “tính động của nhóm” (group dynamics). Tuy Diamond nhận rằng đây là một đề tài phức tạp không có một câu trả lời duy nhất, nhưng ông có thử phác hoạ một “lộ trình” đóng góp vào sự thất bại của các quyết định tập thể.

Ông chia “lộ trình” này làm bốn khâu đoạn. Trước hết, một tập thể có thể không thấy một vấn đề trước khi nó xảy ra. Thứ hai, khi vấn đề đó xảy ra thì tập thể ấy có thể không nhận chân được nó. Thứ ba, khi tập thể nhận ra vấn đề thì họ cũng không cố gắng giải quyết nó. Và cuối cùng, họ có thể cố giải quyết nhưng không thành công.

Một tập thể có thể không dự đoán được sự cố trước khi nó xảy ra, vì nhiều lí do. Một là họ chưa bao giờ trải nghiệm sự cố ấy trong quá khứ, do đó nó nằm ngoài tưởng tượng của họ. Hai là, sự cố tương tự đã từng có trong quá khứ, nhưng đã quá xa trong dĩ vãng và không ai trong tập thể còn nhớ nó nữa (điều này đặc biệt nghiêm trọng cho những xã hội không có chữ víết). Ba là, một xã hội không thấy trước vấn đề có thể vì họ suy diễn sai lầm (tương tự như, sau Thế Chiến I, Pháp xây dựng phòng tuyến Maginot để chống Đức vì nghĩ rằng trong tương lai Đức cũng sẽ xâm lăng Pháp theo chiến thuật mà Đức đã dùng).

Sau khi sự cố đã thành hiện thực, một tập thể có thể không nhận thấy nó. Có ba lí do. Thứ nhất, nguyên nhân của nhiều hiện tượng rất khó thấy. Chẳng hạn như nhiều tập thể đã không biết tại sao đất trồng trọt của mình trở thành kém màu mỡ đi. Thứ hai, có thể là người quản lí sống nơi khác, không biết được tình huống đang xảy ra ở một địa phương. Thứ ba, và thường nhất, một xã hội có thể không nhận thấy một hiện tượng khi hiện tượng đó xảy ra dần dần, qua thời gian dài, lại vừa có thể dao động lên xuống. Ví dụ như ngày nay nhiều người phủ nhận là trái đất ngày càng ấm, vì nếu nhìn vào nhiệt độ trung bình thì có năm thì nóng, có năm lại lạnh hơn bình thường. Chỉ khi nhìn vào xu huớng nhiệt độ hàng thế kỉ thì mới thấy nó có đà lên cao.

Song, theo Diamond, lí do quan trọng nhất là dù sự cố đã xảy ra, và tập thể nhận xét đúng, nhưng không đối phó được vì một thiểu số sẽ theo đuổi quyền lợi (ích kỉ) của bản thân họ dù hành động ấy sẽ tổn hại, thậm chí hoàn toàn trái ngược quyền lợi cộng đồng.

Cuối cùng, một tập thể có thể không phạm những lỗi lầm (1)-(3) nhưng cố gắng của họ là không hiệu quả, giải pháp quá tốn kém, không đủ mạnh, quá chậm, hoặc gây ra những tai hại khác.

Vậy, Jared Diamond kết luận, xã hội đã có nhiều quyết định thảm hại do nhiều nguyên nhân khác nhau, tuy nhiên, ông cũng bảo rằng không phải là xã hội nào cũng thất bại, bằng cớ là hiện nay loài người vẫn còn tồn tại! Hơn nữa, nhân loại ngày nay có nhiều lợi điểm hơn trong quá khứ. Một là chúng ta có nhiều thông tin hơn về kinh nghiệm những nơi khác, đang xảy ra cũng như trong quá khứ, mà chúng ta có thể học hỏi được. Hai là, nhờ “toàn cầu hoá”, mỗi quốc gia không còn tuỳ thuộc vào chỉ một quốc gia khác. Về khoa học và công nghệ, tuy Diamond nhìn nhận rằng nó có ích, song ông cũng cảnh báo là chính công nghệ có thể gây ra nhiều hiểm họa mới. (Bill Gates, trong bài điểm sách của Jared Diamond, cũng nhất trí điều này.)

Tuy Jared Diamond có những khám phá mới lạ và nhiệt tình biện hộ cho cách lí giải lịch sử của mình, ông cũng nhận rằng nhiều lối giải thích khác (chẳng hạn như ý kiến nổi tiếng của Thomas Carlyle theo đó lịch sử là do những “vĩ nhân” uốn nắn) có thể có ích hơn trong những trường hợp nào đó (ví dụ như khi giải thích những giai đoạn ngắn). Nhiều người quý mến thái độ hoà nhã này của Diamond, song cũng có người cho rằng ông có thói “ba phải”. Một chỉ trích nữa là Diamond tuyển chọn những kinh nghiệm lịch sử quá cá biệt. Tuy nhiên, muốn đánh giá đúng đắn lí thuyết của Jared Diamond, cần phải đọc toàn bộ tác phẩm của ông. Một bài giới thiệu ngắn như thế này, dù trung thực, cũng không thể dồi dào và súc tích như nguyên bản.


SCAN, ĐÁNH MÁY, CONVERT SANG PDF, PRC, EPUB, LIT, DOCX BỞI Khosachcuaban.tk